Ngày 19/10, đại diện Công an thành phố Dĩ An (Bình Dương) thông tin, đã tạm giữ Hoàng Thị Hạnh (31 tuổi, quê Thanh Hóa, chủ một tiệm cắt tóc) để điều tra về hành vi môi giới mại dâm. Theo công an, để hoạt động môi giới mại dâm, Hạnh đăng hình ảnh khỏa thân của các Bình luận bản án luật Sở hữu trí tuệ, Tranh chấp "Thần đồng đất việt" – Phần 1. Tóm tắt bản án: Họa sỹ Lê Linh kiện công ty phan thị về việc xác định tác giả duy nhất các hình tượng nhân vật hoạt hình. Vấn đề pháp lý: xác định tác giả, đồng tác giả Vietnamplus: Hòa Bình: Một bị cáo tù chung thân, 2 bị cáo tù 20 năm mua bán ma túy , Baotintuc: Bản án nghiêm khắc cho các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy Cuốn sách “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 và Trích dẫn các văn bản hướng dẫn có liên quan” của Ths Đỗ Văn Nghiêm được biên soạn với tinh thần ấy. Điểm khác biệt của công trình này là tác giả bình luận cả phần chung và phần riêng của Bộ luật Hình Ông Tất Thành Cang lãnh thêm bản án 6 năm tù vì bán rẻ đất đai. Ngày 19.10, TAND TP.HCM đã tuyên phạt bị cáo Tất Thành Cang 6 năm tù vì tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí. Tổng hợp hình phạt từ vụ án Sadeco trước đó cash. - Bản án nói chung và bản án hình sự sơ thẩm nói riêng do Tòa án ban hành nên là văn bản tố tụng tư pháp của Nhà nước nhằm điều chỉnh quan hệ pháp luật giữa Nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm; công tác kiểm tra giám đốc án, cũng như nghiên cứu một số vụ án, chúng tôi thấy còn nổi lên một số tồn tại trong việc viết bản án. Về hình thức, bản án là một trong các “văn bản tố tụng” [1] của Tòa án được soạn thảo với mẫu thống nhất theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS. Việc soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm đảm bảo được các yêu cầu là một nội dung rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, nhất là hiện nay, việc công bố bản án là một yêu cầu bắt buộc. Đặc biệt là Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng đã ban hành mẫu và hướng dẫn viết bản án hình sự sơ thẩm thống nhất trong toàn ngành. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm; công tác kiểm tra giám đốc án, cũng như nghiên cứu một số vụ án, chúng tôi thấy còn nổi lên một số tồn tại trong việc viết bản án. 1. Về thể thức bản án Theo thống nhất tại hội nghị trực tuyến tập huấn viết bản án năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao thì thể thức và kỹ thuật soạn thảo bản án được thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH 14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy còn có một số bản án viết chưa đúng cỡ chữ, tùy tiện viết hoa; viết hoa danh từ riêng chỉ tên người, viết hoa tên địa lý hoặc tên cơ quan, tổ chức...chưa đúng thậm chí ngay trong một bản án nhưng tồn tại hai cách viết khác nhau về cùng một nội dung. Ví dụ “Huân chương chiến sĩ vẻ vang” phải là Huân chương Chiến sĩ vẻ vang; hoặc “Thành phần hội đồng xét xử Sơ thẩm gồm có” phải là “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”... 2. Về nội dung của bản án Phần mở đầu Phần này phản ánh các nội dung theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLTTHS gồm Thông tin của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa; thời gian, địa điểm mở phiên tòa, xử công khai hay xử kín...Tuy phần này được xác định là mẫu thống nhất nhưng giữa các bản án được công bố cũng còn nhiều nội dung chưa thống nhất là - Phần tiêu đề ở góc trái bản án Có bản án in đậm nội dung “Bản án số 04/2020/HS-ST ngày... tháng... năm” có bản án lại in thường; có bản án ghi “Bản án số 04/2020/HSST”. Có bản án lại “sáng tác” thêm mục “Vụ T và Tr; tội “Đánh bạc” sau số bản án và ngày tháng - là những nội dung mà mẫu bản án của TANDTC không hướng dẫn phải viết vào bản án. - Phần ghi thông tin về những người tiến hành tố tụng, thời gian địa điểm xét xử Cùng một nội dung đã được mẫu bản án hướng dẫn thống nhất nhưng trong thực tế nhiều bản án còn viết với nhiều hình thức khác nhau và chưa đúng mẫu bản án như Có bản án viết “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”, bản án khác lại viết “Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”; hoặc “Các hội thẩm nhân dân 1. Ông Nguyễn Văn A; 2. Bà Nguyễn Thị B” thay vì phải là “Các hội thẩm nhân dân Ông Nguyễn Văn A; Bà Nguyễn Thị B”. Về địa điểm xét xử Có bản án viết “... tại trụ sở Tòa án nhân huyện C” hoặc “... tại phòng xử án Trung đoàn X, Quân khu Y” có bản án lại viết “... tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện C”. Theo chúng tôi, nếu vụ án được xét xử tại trụ sở Tòa án thì phải viết “tại phòng xử án” và nếu xét xử tại địa điểm khác ngoài trụ sở thì phải viết “tại hội trường”... mới chính xác. Có bản án chỉ viết “Ngày.. .tháng.. .năm, tại trụ sở Tòa án... xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số ... ngày.. .tháng.. .năm... với các bị cáo” là chưa phản ánh đầy đủ việc xét xử là công khai hay xử kín và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số... ngày... tháng... năm nào như mẫu bản án đã hướng dẫn. Mục “Thư ký phiên tòa” Theo hướng dẫn thì chỉ cần ghi họ tên thư ký của Tòa án nào nhưng hiện nay cũng còn nhiều cách viết khác nhau như “Thư ký phiên tòa Ông Đinh Đức T”; “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN, tỉnh QN”; “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN” thay vì chỉ cần viết “Thư ký phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN, tỉnh QN” là đủ. Về chức vụ của Kiểm sát viên, có bản án ghi “Kiểm sát viên” có bản án lại ghi “Kiểm sát viên trung cấp”, “Kiểm sát viên sơ cấp”.... Có vụ án, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vụ án phải hoãn nhiều lần thì HĐXX cũng ghi tất cả các quyết định hoãn phiên tòa vào phần này “Ngày... theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HS, ngày 29 tháng 7 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2020/QĐST-HSST, ngày 14 tháng 8 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐST-HSST, ngày 24 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo...”; có bản án lại không ghi các quyết định này. - Phần lý lịch của bị cáo Hồ sơ vụ án phản ánh bị cáo không có bí danh hay tên gọi nào khác nhưng có bản án vẫn ghi “Tên gọi khác bí danh Không” là thừa. Có bản án không phản ánh nội dung “dân tộc, giới tính, tôn giáo, quốc tịch” của bị cáo. Bị cáo sinh ngày 02/7/2002, phạm tội ngày 30/6/2019 tức là khi phạm tội thì bị cáo mới 16 tuổi 11 tháng 28 ngày nhưng bản án chỉ ghi ở phần lý lịch bị cáo là “Sinh ngày 02/7/2002” mà thiếu mất đoạn “đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 11 tháng 28 ngày”. Mặt khác, mẫu bản án số 27-HS ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng TANDTC hướng dẫn “nếu bị cáo trên 18 tuổi thì ghi ngày, tháng, năm sinh hoặc tuổi” theo chúng tôi là chưa thống nhất bởi tuổi của bị cáo chỉ được tính đến thời điểm Tòa án xét xử còn nếu ghi ngày tháng năm sinh của bị cáo thì đó là dữ liệu gắn với một con người suốt cả cuộc đời; đồng thời nếu ghi đầy đủ ngày tháng năm sinh của bị cáo sẽ đảm bảo thống nhất tất cả các bản án trong toàn ngành. + Về “nơi cư trú” của bị cáo Nhiều bản án vẫn dùng từ “Trú tại” theo mẫu bản án cũ phải ghi là “nơi cư trú” hoặc “nơi thường trú” cho phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Cư trú. Trường hợp bị cáo là quân nhân nhưng bản án chỉ ghi nơi cư trú của bị cáo là tên đơn vị của bị cáo Ví dụ “Nơi cư trú Đại đội 20, Bộ Tham mưu Quân khu X” mà không ghi đầy đủ địa danh địa lý nơi đơn vị của bị cáo đóng quân là chưa đầy đủ. Theo quy định tại Điều 44 Bộ luật Dân sự và Điều 16 Luật Cư trú thì Nơi cư trú của quân nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị của quân nhân đó đóng quân; nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng là nơi đơn vị người đó đóng quân, trừ trường hợp họ có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Bộ luật Dân sự. + Về “trình độ văn hóa học vấn” Một số bản án còn nhầm lẫn giữa trình độ hiểu biết và trình độ chuyên môn của bị cáo nên phản ánh nội dung này trong bản án chưa đúng với nhiều cách viết khác nhau như “trình độ văn hóa Đại học”, “trình độ văn hóa Cử nhân xây dựng”; “trình độ văn hóa 10/12”; “trình độ văn hóa lớp 10”; “trình độ học vấn Lớp 10/12”; “trình độ văn hóa học vấn 11/12”... Học vấn là khái niệm chỉ mức độ của việc học mà một người đã đạt tới, bao gồm nhiều cấp bậc như tiểu học, trung học, đại học… Ở mỗi cấp bậc như thế, ta có thể gọi là một trình độ. Do đó, có thể hiểu rằng trình độ học vấn chính là trình độ hiểu biết do học hỏi mà có. Song, hiện nay, trình độ văn hóa đang được đánh đồng là trình độ giáo dục phổ thông mà theo đó, trình độ văn hóa được dùng để chỉ cấp độ học tập theo các bậc học phổ thông được thể hiện trong mẫu Sơ yếu lý lịch. Tuy nhiên, việc hiểu trình độ văn hóa như trên là chưa đúng, bởi theo nghĩa rộng, trình độ văn hóa còn bao gồm cả trình độ phát triển vật chất và tinh thần của một cá nhân trong đó chứa đựng cả cách sống, lối sống. Còn trình độ giáo dục phổ thông là trình độ của mỗi người tiếp thu kiến thức trong quá trình học tập ở các bậc học phổ thông tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Người có trình độ học vấn cao chưa hẳn đã có trình độ văn hóa cao, thậm chí vẫn bị coi là thiếu văn hóa. Có người trình độ học vấn thấp, nhưng ứng xử xã hội chuẩn mực vẫn là người có văn hóa. Do đó, mục “trình độ văn hóa học vấn” trong mẫu bản án hiện nay theo chúng tôi nên thay thế bằng cụm từ “trình độ học vấn” cho phù hợp. + Về “Tiền án, tiền sự; nhân thân” Ghi nội dung này trong bản án chưa đúng, có bản án chỉ ghi tiền án, tiền sự mà không ghi nhân thân của bị cáo; có bản án ghi tiền án của bị cáo không đúng từ ngữ pháp lý như “Tiền án Bản án số 30/STHS ngày 19/5/2004 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh TQ xử phạt 06 tháng tù treo, thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản; Tiền sự, nhân thân Không”. Có bản án ghi “Tiền án, tiền sự, nhân thân Không”. Đối với một số biện pháp xử lý hành chính, nhiều bản án chỉ ghi ở mục “Nhân thân” “Bị cáo bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường hoặc bị đưa vào trường giáo dưỡng, đi cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số... ngày... tháng... năm... của ....” mà không ghi cụ thể thời gian bị áp dụng các biện pháp này từ khi nào đến khi nào do đó không có cơ sở để nhận biết là tính đến ngày phạm tội thì bị cáo đã được coi là chưa bị xử lý hành chính hay không. Có bản án còn ghi cả những lần bị cáo bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính nhưng theo Luật Xử lý vi phạm hành chính thì hành vi đó đã được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính vào mục “tiền sự”. - Về những thành phần tham gia tố tụng tại phiên tòa Có bản án xác định thừa hoặc sai tư cách tố tụng như Bản án xác định một người tham gia phiên tòa với tư cách tố tụng là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” nhưng họ không yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung gì, quá trình xét xử Tòa án cũng không xem xét, giải quyết gì đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Trường hợp này hay xảy ra với người mua tài sản ngay tình và tài sản đó do bị cáo trộm cắp được và bán cho họ hoặc trường hợp trước khi mở phiên tòa, đại diện gia đình bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong cho bị hại. Nhiều bản án, khi ghi lý lịch của bị hại là tổ chức, cơ quan, đơn vị nhưng không xác định rõ địa chỉ của tổ chức, cơ quan, đơn vị đó. Có trường hợp người làm chứng đã chết sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng trong bản án lại xác định “Người làm chứng Nguyễn Văn A; vắng mặt có lý do”... Phần “Nội dung vụ án” Phần này phải thể hiện đầy đủ các nội dung theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Ở phần này, câu văn được HĐXX sử dụng “là loại câu chủ động, thể hiện rõ hành động và ý chí của các đối tượng được đề cập trong bản án” [2]. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy ở phần này còn một số tồn tại sau - Một số bản án chép lại gần như nguyên văn nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát về diễn biến hành vi phạm tội trong đó thống kê lại đặc điểm toàn bộ vật chứng của vụ án đã thu giữ và xử lý nên làm bản án dài và trùng lặp. - Ghi quan điểm của Kiểm sát viên KSV, của người tham gia tố tụng tại phiên tòa trong giai đoạn tranh luận chưa đầy đủ nên chưa phản ánh rõ nét hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, thể hiện ở việc + Có bản án phản ánh đầy đủ đề nghị của KSV về các điểm, khoản, điều của BLHS, BLTTHS để giải quyết phần hình sự nhưng phần các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng thì KSV lại không nêu các điều luật viện dẫn để giải quyết. + Có bản án không nêu ý kiến của người làm chứng hoặc nêu không đầy đủ quan điểm của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của bị hại mặc dù các chứng cứ này trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa đều có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án. Cá biệt có bản án, mặc dù người làm chứng, bị hại, đương sự có mặt và tranh tụng tại phiên tòa nhưng trong bản án lại ghi “Trong quá trình điều tra, người làm chứng khai nhận... ”. Có bản án, mặc dù những lời khai của người làm chứng rất quan trọng và những lời khai này đều được các bên đưa ra khi tranh tụng tại tòa, nhưng vì người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX cũng không ghi vào trong bản án. + Có bản án chỉ nêu quan điểm đề nghị của KSV và lời nói sau cùng của bị cáo mà không phản ánh quan điểm bào chữa của bị cáo mặc dù kiểm tra biên bản phiên tòa cho thấy bị cáo có bào chữa và vì vậy nên bản án cũng không ghi được những ý kiến đối đáp của KSV với bị cáo, người bào chữa cho bị cáo. Có bản án, mặc dù HĐXX biết KSV nêu nội dung luận tội đúng nhưng đề nghị viện dẫn điều luật sai song tại tòa, HĐXX không hỏi lại để KSV đính chính mà vẫn ghi vào trong bản án các điều luật nhầm lẫn đó nhưng ở phần “Nhận định của Tòa án” thì HĐXX không lập luận gì về nội dung này. + Có bản án khi đại diện VKS tại phiên tòa thay đổi tội danh truy tố bị cáo nhưng bản án cũng không nêu lý do gì và ý kiến của bị cáo ra sao trước sự thay đổi đó. Ví dụ VKS trước đó truy tố bị cáo tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 93 BLHS; bản án viết “Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, vị đại diện VKSND tỉnh HT giữ quyền công tố tại phiên tòa đã thay đổi tội danh của cáo trạng đã truy tố, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân, tâm lý bị cáo trong quá trình phạm tội, từ đó đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H khoảng từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Vô ý làm chết người” theo khoản 1 Điều 98 BLHS. Miễn xét về phần dân sự....”. - Việc lựa chọn chứng cứ chứng minh để nêu trong bản án còn thiếu khoa học Có bản án viện dẫn chứng cứ quá dài, có những chứng cứ mà nội dung không liên quan gì đến việc giải quyết vụ án. Có bản án lại ghi cả những hành vi mà Viện kiểm sát không truy tố vào phần này. Cá biệt có bản án còn ghi nhầm quan điểm giải quyết của HĐXX mà lẽ ra phải được đưa vào phần “Nhận định của Tòa án” vào phần “Nội dung vụ án”. - Sử dụng từ ngữ pháp lý chưa phù hợp. Ví dụ “Quan điểm của Vị đại diện VKSND..... Sau khi phân tích....., Vị cho rằng.......; Vị Kiểm sát viên quyết định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng....; Vị còn đề nghị HĐXX... ” . Sử dụng từ ngữ chưa thống nhất như “ông kiểm sát viên”;“vị đại diện VKS”;“ông công tố viên”;“đại diện VKS” hoặc “đồng bọn” trong vụ án đồng phạm hay “tịch thu, sung quỹ nhà nước” phải là “tịch thu sung vào ngân sách nhà nước”... Phần “Nhận định của Tòa án” Phần này phải phản ánh đầy đủ các nội dung theo quy định tại điểm d, điểm đ, điểm e khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Tuy nhiên qua nghiên cứu cho thấy - Việc phân định các đoạn văn trong dấu [ ] nhiều bản án chưa hợp lý thể hiện ở chỗ Thông thường, HĐXX nhận định đánh giá về hành vi, quyết định tố tụng của người và cơ quan tiến hành tố tụng trước khi giải quyết các vấn đề của vụ án; nhưng có bản án thì HĐXX lại đặt mục này ở cuối cùng của phần “Nhận định của Tòa án” là chưa phù hợp bởi việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của người và cơ quan tiến hành tố tụng là tiền đề trước khi xem xét, giải quyết các nội dung khác của vụ án. Mặt khác, có bản án chia quá nhỏ các nội dung trong dấu [ ] mà không phân định theo mỗi tình tiết hoặc các nhóm tình tiết của vụ án khiến bản án bị rối vì quá nhiều mục. Có bản án, HĐXX phân tích, đánh giá và giải quyết hết các nội dung của vụ án xong và ở mục cuối cùng, trước khi quyết định mới ghi “ [9] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng là phù hợp nên HĐXX chấp nhận”. Nếu viết bản án như vậy thì không sai; tuy nhiên chưa thể hiện rõ tính tranh tụng tại phiên tòa. Lẽ ra, các ý kiến của KSV, của người tham gia tố tụng đề nghị tại phiên tòa phải được HĐXX khẳng định chấp nhận hoặc không chấp nhận vì lý do gì tại mỗi mục dấu [ ] mà HĐXX giải quyết trong phần này của bản án, như vậy mới đảm bảo tính lô gic, tức là thể hiện tính tranh tụng rõ nét trong việc giải quyết các nội dung vụ án của HĐXX. Ví dụ “... từ sự phân tích nêu trên, HĐXX có cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý để kết luận Bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015. Do vậy, ý kiến của ông KSV tại phiên tòa có cơ sở chấp nhận; ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về việc bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là không có cơ sở chấp nhận”. Thực tế, nhiều bản án chưa phản ánh đầy đủ nội dung tranh tụng tại phiên tòa và thường thuộc hai trường hợp là 1 quá trình tranh tụng, các bên có tranh luận nội dung đó nhưng không được HĐXX phản ánh vào bản án và 2 quá trình tranh tụng, HĐXX quên không đưa vấn đề đó ra cho các bên tranh luận nên bỏ sót không đưa vào bản án. - Một số bản án chưa nêu được mục đích, động cơ phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội hoặc điều kiện sinh sống và giáo dục của bị cáo, nhất là trong trường hợp bị cáo là người dưới 18 tuổi. Một số bản án xét xử các vụ án đồng phạm nhưng HĐXX không phân tích làm rõ hình thức đồng phạm, không xác định rõ vai trò của từng bị cáo trong vụ án nhưng trong quyết định của bản án lại áp dụng các quy định về đồng phạm Điều 17 và Điều 58 BLHS với các bị cáo. - Khác với phần “Nội dung vụ án” ở trên; ở phần này, câu văn được HĐXX sử dụng là “loại câu bị động tức là câu có chủ ngữ chỉ người, vật được hoạt động của người, vật khác hướng vào, chủ yếu nhằm chỉ đối tượng của hoạt động” [3]. Tuy nhiên, việc sử dụng từ ngữ trong một số bản án còn chưa phù hợp, thiếu tính pháp lý thể hiện ở việc Nhiều bản án hay sử dụng từ “Tại phiên tòa hôm nay” trong khi vụ án từ khi khai mạc đến khi tuyên án phải kéo dài ngày; vậy “hôm nay” xác định trong bản án là hôm nào? Sử dụng từ “tang vật” trong khi BLTTHS xác định đó là “vật chứng”. Bản án đã được HĐXX nghị án xong và tuyên án nhưng trong phần này bản án vẫn nêu “Khi quyết định hình phạt, HĐXX sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung” hoặc “về nhân thân các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và người lao động”. Có bản án nêu những nhận xét, đánh giá mang tính cảm quan như “từ những đánh giá trên, nghĩ cần thiết phải cách ly bị cáo Nguyễn Văn T ra khỏi đời sống xã hội....”. Hoặc “về nhân thân ba bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ 03 bị cáo chưa có tiền án, tiền sự... ”. - Bản án viết chưa đúng mẫu; bản án viết cùng một nội dung nhưng chưa thống nhất với nhau giữa ngay trong một Tòa án hoặc giữa các Tòa án với nhau. Ví dụ Mẫu bản án của TANDTC hướng dẫn các nội dung cần phải có trong bản án nhưng có bản án lại chép nguyên văn mẫu này vào bản án và đánh giá của HĐXX lại mập mờ, không rõ như “ [1] Phân tích tính hợp pháp của các hành vi tố tụng Về hành vi, quyết định tố tụng ... của ... trong quá trình ... đã cơ bản thực hiện đúng thẩm quyền ....; [2] Phân tích chứng cứ buộc tội và gỡ tội đối với các bị cáo...”. Nhiều bản án sau khi phân tích hành vi khách quan của bị cáo thì HĐXX đã trích dẫn cả điều luật của BLHS về tội danh mà bị cáo đã phạm vào bản án nhưng nhiều bản án lại không trích dẫn điều luật BLHS bị cáo bị xét xử vào bản án. Có bản án nêu cả quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng thành một mục trong phần “Nhận định của Tòa án” nhưng có bản án thì không có mục này. - Về biện pháp tư pháp Nhiều bản án áp dụng pháp luật thiếu chính xác như thay vì áp dụng khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 589 BLDS thì lại ghi áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 589 BLDS. Có trường hợp được HĐXX xác định tư cách tham gia tố tụng trong bản án là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” nhưng phần này HĐXX lại không nêu họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gì đến vụ án; thực tế thì họ không có yêu cầu, đề nghị gì nhưng phần “Quyết định” của bản án lại tuyên họ có quyền kháng cáo bản án là thiếu lô gic và chưa chính xác. Cá biệt, một số vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” chưa xác định đầy đủ tư cách của chủ sở hữu phương tiện là bị đơn dân sự nên không buộc bị đơn bồi thường thiệt hại. - Phần ghi quan điểm của HĐXX về xử lý vật chứng Nhiều bản án chưa nêu được căn cứ pháp luật để HĐXX xử lý các vật chứng của vụ án mà chỉ ghi chung chung là “... đối với các vật chứng....là những vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy” nhưng trong phần quyết định của bản án lại tuyên “...áp dụng Điều 47 BLHS, căn cứ Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy...” là thiếu lô gic và chưa đúng các điểm, khoản của điều luật được áp dụng. - Mục [Về án phí], có bản án viện dẫn khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; có bản án lại viện dẫn khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14; có bản án viện dẫn khoản khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 cùng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 nhưng có bản án lại chỉ nêu “Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật”. - Về việc giải quyết các biện pháp ngăn chặn Trước khi xét xử bị cáo phạm tội “Đánh bạc”, bị cáo bị Tòa án ra lệnh “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; khi xét xử, bị cáo bị phạt tiền; HĐXX nhận định trong bản án và quyết định trong phần quyết định của bản án là “hủy quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú trước đó” với bị cáo nhưng có bản án cũng vẫn xét xử tội đánh bạc như vậy thì HĐXX lại không quyết định hủy biện pháp ngăn chặn này. Tương tự như vậy, bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” thì có HĐXX lại nhận định trong bản án là “tiếp tục áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú với bị cáo cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật” chứ không đưa vào phần quyết định nội dung này, có HĐXX lại không đề cập gì đến nội dung này trong bản án. Phần quyết định Phần này phải phản ánh đầy đủ nội dung theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Mẫu viết bản án tại Nghị quyết số 05/2017/NQ- HĐTP 19/9/2017 không hướng dẫn HĐXX phải ghi áp dụng “điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS” vào bản án. Tuy nhiên, nghiên cứu các “Quyết định” của những bản án đã được công bố cho thấy có rất nhiều cách tuyên với nội dung và hình thức khác nhau và không thống nhất về hình thức và nội dung như - Nhiều bản án sử dụng từ “Căn cứ” theo đúng mẫu bản án của TANDTC, nhiều bản án lại sử dụng từ “Áp dụng”. - Cách tuyên án cũng khác nhau Nhiều bản án tuyên căn cứ các điều luật về tội danh; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, án phí sau đó mới tuyên bố bị cáo phạm tội. Nhiều bản án lại tuyên bố bị cáo phạm tội gì sau đó mới tuyên áp dụng điều luật ở từng mục hình sự, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, án phí .... Quyết định về án phí Tương tự như phần “Nhận định của Tòa án” đã nêu trên, có bản án viện dẫn khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14; có bản án chỉ viện dẫn khoản 2 Điều 136 BLTTHS; có bản án lại viện dẫn cả khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14...như Có bản án tuyên “Vì các lẽ trên, căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS; Quyết định 1. Về hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội Giết người; áp dụng khoản 1 Điều 123 điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo.....”. Có bản án lại tuyên “Vì các lẽ trên, Quyết định 1. Tuyên bố bị cáo Lê Thái Ng phạm tội Đánh bạc; áp dụng khoản 1 Điều 321... BLHS xử phạt bị cáo Lê Thái Ng đồng”. Bản án khác tuyên “ Vì các lẽ trên, Quyết định [1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 BLHS; tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội đánh bạc; áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51......BLHS xử phạ t...”. Có bản án lại tuyên tất cả các điều luật được áp dụng ngay sau từ “Quyết định” như “Vì các lẽ trên, Quyết định Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; khoản 2 Điều 56 BLHS. Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14... Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy D phạm tội ...; phạt bổ sung đ. Về án phí Bị cáo Nguyễn Huy D phải nộp đồng án phí hình sự sơ thẩm ...”. Có bản án lại tuyên trong “Quyết định” cả các điều luật của BLTTHS về thẩm quyền của Tòa án như “Vì các lẽ trên, Quyết định Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 268, Điều 269 và Điều 299 BLTTHS; tuyên bố bị cáo Luyện Văn Đ phạm tội giết người; căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm ... BLHS xử phạt bị cáo ....”. Có bản án do bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong phần bồi thường trước khi xét xử thì HĐXX lại ghi “Vì các lẽ trên, Quyết định 1. Về tội danh và hình phạt... 2. Về trách nhiệm dân sự Miễn xét”. - Về quyết định của Hội đồng xét xử với việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án để đảm bảo thi hành án cũng không thống nhất Có bản án ghi trong phần Quyết định “Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo cho việc thi hành án có Quyết định tạm giam riêng của Hội đồng xét xử”. Có bản án lại tuyên “Áp dụng khoản 1 Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án”; nhiều bản án không tuyên các nội dung này trong quyết định của bản án mà HĐXX thảo luận, quyết định nội dung này và được ghi trong biên bản nghị án sau đó HĐXX công bố quyết định này sau khi tuyên án. - Đối với những bản án tuyên bị cáo còn phải có nghĩa vụ thi hành án dân sự quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí ... thì theo hướng dẫn của Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009 về thi hành Luật Thi hành án hình sự, tại phần cuối cùng Quyết định của bản án phải ghi “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”. Tuy nhiên nhiều bản án lại không ghi nội dung này. Ngoài ra, một số bản án do chưa cập nhật nội dung Luật Thi hành án hình sự 2019 đã có hiệu lực thi hành nên trong bản án vẫn tuyên “trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự” Điều 69 là của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã hết hiệu lực thi hành là không chính xác. - Nhiều quyết định của bản án trong mục xử lý vật chứng lại ghi lại đặc điểm của toàn bộ các vật chứng trong vụ án là không cần thiết hoặc tuyên tịch thu vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, tài sản do phạm tội mà có nhưng lại không xác định những tài sản, vật chứng đó là của ai. Có trường hợp không áp dụng Điều 128 BLTTHS để kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án mà chỉ tuyên “tạm giữ xe mô tô ... để đảm bảo thi hành án”. Với những hiểu biết còn hạn chế của mình; chúng tôi xin nêu lên một số nội dung còn tồn tại hoặc chưa thống nhất trong hình thức và nội dung viết bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án các cấp để cấp có thẩm quyền hướng dẫn và thống nhất trong toàn ngành nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung cũng như chất lượng viết bản án nói riêng./. Chủ toạ phiên toà vụ gian lận điểm ở Hà Giang công bố bản án - Ảnh Nguyễn Hưng/ CAND [1] Điều 132 BLTTHS [2] Một số vấn đề về bản án và văn phong bản án- Lê Văn Minh, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [3] Một số vấn đề về bản án và văn phong bản án- Lê Văn Minh, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao 1. Quy định pháp luật liên quan đến án lệ- Điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự 1999 tương ứng với điểm d khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015.- Điều 257 Bộ luật hình sự 1999 tương ứng với Điều 330 Bộ luật hình sự 20152. Sự cần thiết công bố án lệ Thực tiễn cho thấy, có những hành vi, tình tiết tương tự nhau nhưng việc định tội, định khung lại không giống nhau. Cụ thể, trong vụ án sau Khi người điều khiển phương tiện giao thông bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe để kiểm tra và xử lý vi phạm thì người lái xe có hành vi chống đối và điều khiển phương tiện đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ dẫn đến hậu quả chết người hoặc gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho người thi hành công vụ. Có trường hợp định tội danh là cố ý gây thương tích, trường hợp khác cũng tương tự như vậy thì lại định tội danh là chống người thi hành công vụ, có trường hợp thì truy tố, xét xử về tội giết người theo Điều 93 BLHS vậy, với hành vi trên, việc định tội và định khung hình phạt là thiếu thống nhất. Do đó, cần thiết phải có một án lệ làm căn cứ định tội danh bảo đảm thống nhất trong việc áp dụng các quy định Nội dung vụ án hình sự và tình huống án lệ* Nội dung vụ án" Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.Phan Thành H và Từ Công T còn có hành vi phạm tội như sau Bị cáo Từ Công T biết rõ bị cáo Phan Thành H chưa có giấy phép lái xe hạng FC và chưa đủ tuổi để được cấp giấy phép lái xe hạng FC, nhưng Từ Công T đã thuê một người ở Hải Phòng Từ Công T không biết rõ họ tên và địa chỉ làm giấy phép lái xe hạng FC giả, số 520144004729 có ảnh của Phan Thành H, nhưng mang tên Lưu Văn C đưa cho Phan Thành H sử dụng nhằm lừa dối cơ quan chức năng khi điều khiển xe trên đường. Khi có giấy phép lái xe giả do Từ Công T cung cấp, Phan Thành H đã hai lần sử dụng giấy phép lái xe giả để lừa dối cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Ngãi và Công an huyện L, tỉnh Hà Tĩnh. Hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả lừa dối cơ quan chức năng nêu trên của Phan Thành H, thì Từ Công T đều biết" .* Tình huống án lệLời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.Do có hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Thành H về tội “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản 2 Điều 267 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.”4. Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệKhi án lệ số 18/2018 có hiệu lực 03/12/2018, nếu có hành vi dùng phương tiện cố ý đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông khi thi hành công vụ gây hậu quả thương tích hoặc chết người thì phải áp dụng ALHS số 18/2018 để xét xử về tội giết người với tình tiết định khung là giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 hoặc điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS thức mở rộng, qua án lệ này giúp phân biệt rõ hành vi phạm tội giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân là tình tiết định khung quy định tại Điều 93 BLHS 1999, tương ứng với Điều 123 BLHS 2015 hoàn toàn khác biệt với hành vi khách quan và ý thức chủ quan của tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 257 BLHS 1999, tương ứng với Điều 330 BLHS là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info 1. Các dạng vi phạm dẫn đến vụ án hình sự bị hủy Qua thực tiễn xét xử, cùng như tham khảo các báo cáo của Tòa án, Viện kiểm sát... chúng tôi thấy phổ biến một số dạng vi phạm sau đây Vi phạm nghiêm trọng các qui định của BLTTHS a. Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án Điều 110 BLTTHS Vi phạm này thể hiện ở hai dạng Cơ quan tiến hành tố tụng xác định không đúng nơi xảy ra hành vi phạm tội dẫn đến điều tra, truy tố, xét xử sai thẩm quyền lãnh thổ, hoặc vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện thụ lý giải quyết. b. Vi phạm trong việc hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng Điều 131, 132, 135, 137, 138, 139 BLTTHS Những vi phạm này được thể hiện cụ thể như không đảm bảo sự tham gia khách quan của người bào chữa, người giám hộ theo quy định của BLTTHS, có những trường hợp hình thức biên bản thể hiện đúng quy định tố tụng nhưng thực chất thì các biên bản ghi lời khai, hỏi cung không có người giám hộ hoặc Luật sư tham gia mà sau đó họ mới ký vào để hợp pháp hóa các biên bản. Một số trường hợp lập biên bản hỏi cung, ghi lời khai không thể hiện tính khách quan do biên bản được soạn thảo trên máy vi tính với những nội dung giống nhau đến từng dấu chấm, dấu phẩy; các biên bản viết tay thì thể hiện sao chép lại nội dung lời khai của người bị hại, nhân chứng, vi phạm này thường xảy ra ở các vụ án có số lượng đông bị hại và nhân chứng và lời khai của họ thường cùng một nội dung. Biên bản ghi lời khai không gạch chéo phần trống, hoặc không thể hiện rõ việc bị can đã được nghe lại hoặc được đọc lại xác nhận nội dung biên bản. Đặc biệt các biên bản ghi lời khai nhân chứng thường không thể hiện rõ nội dung vì sao biết được tình tiết đó mà khai ra theo quy định của Điều 67 khoản 2 BLTTHS do vậy khi nhân chứng có sự thay đổi lời khai thì không có cơ sở để đánh giá lời khai nào đúng, lời khai nào không đúng. Cũng không ít biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai bị hại, nhân chứng nhưng không có phiên dịch trong những trường hợp họ là người dân tộc. Lời khai của bị can, bị cáo, bị hại, nhân chứng, người liên quan mâu thuẫn nhưng không đối chất làm rõ dẫn đến thiếu căn cứ buộc tội, phải hủy án. Theo quy định tại Điều 138 BLTTHS “Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì ĐTV tiến hành đối chất”, nhưng qua thực tế cho thấy nhiều vụ án Tòa án tuyên hủy để điều tra lại chính là do vi phạm các quy định tố tụng về nội dung. c. Vi phạm tố tụng trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng, khám xét, thực nghiệm điều tra, giám định Điều 140, 150, 153, 155, 156 BLTTHS Vi phạm trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng xảy ra nhiều và thể hiện ở việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường không đúng quy định, thu giữ vật chứng nhưng không lập biên bản niêm phong. Vi phạm trong việc khám xét thể hiện ở việc không tiến hành khám xét nơi cất giấu tang vật. Trong việc thực nghiệm điều tra, vi phạm thể hiện ở việc không tổ chức thực nghiệm tại hiện trường nơi xảy ra vụ án mà thực nghiệm ở nơi khác. Trong giám định hoặc định giá tài sản cũng có nhiều vi phạm như không trưng cầu giám định hoặc giám định, định giá không đúng quy định; các loại vi phạm này thường xảy ra trong các loại tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe; xâm phạm sở hữu; tội phạm về quản lý kinh tế; xâm phạm về trật tự an toàn giao thông. d. Việc điều tra, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để làm căn cứ kết luận hành vi phạm tội, người phạm tội và các tình tiết khách quan của vụ án Điều 63 BLTTHS Dạng vi phạm thể hiện cụ thể là chưa làm rõ hậu quả của tội phạm, hoặc chưa làm rõ tuổi của bị cáo hoặc người bị hại trong các vụ án mà bị cáo, bị hại còn ở tuổi chưa thành niên, đặc biệt là trong các vụ án “Hiếp dâm trẻ em”, bị hại, bị cáo được sinh ra ở khu vực phía Nam thường khai sinh quá hạn và không đúng với thời điểm thực tế bị cáo, bị hại được sinh ra. Nhưng khi tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn thì các cơ quan tiến hành tố tụng không giám định độ tuổi để làm căn cứ khởi tố, truy tố cho chính xác mà vẫn kết luận điều tra truy tố, trong khi việc xác định tuổi của bị cáo, bị hại có ý nghĩa rất quan trọng trong xác định tội danh và quyết định đường lối xử lý. Vi phạm trong xác định lý lịch tư pháp của người thực hiện hành vi phạm tội không chính xác xảy ra nhiều, dẫn đến việc khởi tố bị can, kết luận điều tra, truy tố và kết án không đúng tên người phạm tội. đ. Vi phạm về giới hạn xét xử, việc xét hỏi, tranh luận, nghị án, ghi biên bản phiên tòa và phạm vi xét xử Điều 196, 200, 207, 222, 238 BLTTHS Vi phạm về giới hạn xét xử thường gặp là VKS truy tố một tội danh nhưng Tòa án xử bị cáo về nhiều tội danh khác nhau. Vi phạm về việc xét hỏi và tranh luận thường gặp là không công bố lời khai trong quá trình xét hỏi theo yêu cầu của VKS; tranh luận và xét hỏi đan xen nhau, không đúng quy định tại Điều 207 BLTTHS. Vi phạm về việc nghị án và ghi biên bản phiên tòa thường gặp là nghị án một nội dung nhưng tuyên án một nội dung khác, nghị án tội này nhưng tuyên trong bản án tội khác như nghị án tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” nhưng tuyên án tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, biên bản nghị án không ghi điều luật hay khung hình phạt áp dụng, thậm chí có trường hợp không ghi cả mức hình phạt trong biên bản nghị án, nhiều trường hợp tên và số lượng thành viên HĐXX trong biên bản nghị án khác với tên và số lượng thành viên HĐXX trong bản án và biên bản phiên tòa khác nhau; có sự mâu thuẫn giữa biên bản phiên tòa và biên bản nghị án về số lượng và thành phần những người tiến hành tố tụng; những vi phạm nghiêm trọng này của Tòa án nhưng VKS các địa phương cũng không phát hiện kịp thời để kiến nghị, kháng nghị, những vi phạm đó làm ảnh hưởng rất lớn tới quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nên cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm tuyên hủy án để điều tra lại, xét xử lại. Vi phạm về phạm vi xét xử phúc thẩm là trường hợp bị cáo rút toàn bộ kháng cáo tại phiên tòa nhưng không đình chỉ xét xử phúc thẩm. e. Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng hoặc không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án Điều 51, 52, 53, 54, 55 BLTTHS Việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng thường thể hiện như nhầm lẫn giữa nguyên đơn dân sự và bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự với người có quyền, nghĩa vụ liên quan; nhầm lẫn giữa bị hại với người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Nhiều vụ án không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án như không đưa chủ phương tiện, Công ty bảo hiểm tham gia tố tụng trong các vụ án giao thông. Việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng hoặc không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng rất lớn tới việc giải quyết khách quan toàn diện vụ án, cũng như ảnh hưởng tới quyền nghĩa vụ của các đương sự, ví dụ khi xác định sai người bị hại thành người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan làm ảnh hưởng tới quyền kháng cáo về hình phạt của họ đối với bị cáo và làm thiệt hại cho họ khi quyết định về phần bồi thường. Vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định của BLHS a. Truy tố, xét xử không đúng tội danh Những vi phạm này thường xảy ra ở những tội phạm có dấu hiệu đặc trưng gần giống nhau như giết người với cố ý gây thương tích, giết người trong trạng thái bị kích động mạnh với giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với giết người tại khoản 2 Điều 93 BLHS... hoặc các tội phạm về kinh tế như tội lừa đảo và tội lạm dụng tín nhiệm, hoặc hành vi chỉ phạm vào một tội nhưng truy tố, xét xử về nhiều tội danh khác nhau. b. Bỏ lọt tội phạm và người phạm tội Đây là vi phạm xảy ra khá nhiều trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, được thể hiện ở việc các cơ quan tố tụng đánh giá chứng cứ không đúng, không đầy đủ, toàn diện, dẫn đến bỏ lọt hành vi phạm tội, bỏ lọt người phạm tội, nhất là bỏ lọt những hành vi đi liền với nhau cấu thành nhiều tội phạm khác nhau nhưng chỉ truy tố, xét xử một tội hoặc nhiều người đồng phạm cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng chỉ xử lý người chủ mưu, người thực hành, bỏ lọt các đồng phạm khác, như trong các vụ án giết người có đông đồng phạm tham gia, thường chỉ xử lý kẻ chủ mưu, thực hành còn những đồng phạm khác có vai trò giúp sức về tinh thần thì xử lý hành chính hoặc xử lý tội gây rối trật tự công cộng... Một số tội như “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” để “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” có nơi xử hai tội, có nơi thu hút về một tội, đây cũng là những nội dung các VKS địa phương vướng mắc thỉnh thị nhưng chưa được quan tâm hướng dẫn để có nhận thức và áp dụng thống nhất. c. Xác định sai khung hình phạt, áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cho hưởng án treo, quyết định hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp không đúng Việc xác định sai khung hình phạt thường gặp là bị cáo phạm vào khung tăng nặng nhưng truy tố hoặc xét xử ở khung nhẹ hơn. Áp dụng tình tiết tăng nặng giảm nhẹ không đúng được thể hiện như bỏ sót các tình tiết tăng nặng, cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ không đúng qui định, áp dụng Điều 47 BLHS không đúng, đây cũng là những vi phạm xảy ra khá phổ biến trong xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án bị tuyên hủy nói riêng. Cho hưởng án treo không đúng qui định cũng là những vi phạm xảy ra nhiều, vi phạm này thường bắt nguồn từ việc nhận thức và áp dụng không đúng các qui định của pháp luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, như nhận thức áp dụng sai các tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… từ đó cho hưởng án treo cả những đối tượng chủ mưu, phạm nhiều tội cùng lúc hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, các đối tượng phạm tội có tính chất côn đồ, hoặc cho hưởng án treo đối với các bị cáo phạm các tội dư luận lên án, vi phạm nghiêm trọng Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo. Sử dụng tiền án của bị cáo để xác định là tình tiết định tội, đồng thời lại tiếp tục sử dụng tiền án đó để tính tái phạm đối với bị cáo, vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS. Các vi phạm khác trong việc quyết định hình phạt như không trừ thời gian bắt buộc chữa bệnh vào thời hạn chấp hành hình phạt tù vi phạm Điều 44 BLHS. Trường hợp xử phạt tù có thời hạn nhưng thấp hơn mức thấp nhất của loại hình phạt tù có thời hạn. Áp dụng biện pháp tư pháp không đúng thường liên quan đến việc xử lý vật chứng. 2. Bất cập, hạn chế và kiến nghị hoàn thiện. Về căn cứ hủy bản án hình sự sơ thẩm để xét xử lại Trường hợp “Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS là căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại. Thế nhưng, mặc dù tại điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS đã giải thích khái niệm Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhưng đây là giải thích chung không có quy định giải thích cụ thể các sai sót bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và cũng chưa đề ra tiêu chí phân biệt ranh giới giữa vi phạm nghiêm trọng với vi phạm chưa tới mức nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc hiểu cụ thể về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm còn có những ý kiến khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử là việc Tòa án cấp sơ thẩm đã có những sai phạm về mặt thủ tục tố tụng dẫn đến việc giải quyết xét xử vụ án không tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hành chính làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử được hiểu là những vi phạm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng”. Như vậy, việc BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành không giải thích rõ cụm từ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử” đã làm cho việc hiểu và áp dụng pháp luật gặp khó khăn, lúng túng, thiếu thống nhất giữa các địa phương, các cấp Tòa, ảnh hướng đến chất lượng trong phán quyết của bản án phúc thẩm. Về căn cứ hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại Đối với trường hợp“Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS. Chứng cứ, tài liệu được thu thập trong quá trình điều tra hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án. Trong BLTTHS, chứng cứ, tài liệu được xem là căn cứ quan trọng không thể thiếu để Tòa án giải quyết vụ án khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Về nguyên tắc, các chứng cứ, tài liệu được sử dụng phải đáp ứng hết các tiêu chuẩn khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Khi vụ án được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã phát hiện sự tồn tại của các chứng cứ, tài liệu mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ phải hủy bản án sơ thẩm. Như vậy trong căn cứ này, chúng ta phải làm rõ nội dung thế nào là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Hiện nay, BLTTHS chưa có quy định nào nhằm xác định việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được còn nhiều quan điểm và cách giải quyết khác nhau, cụ thể Một là, nếu các chứng cứ đã tồn tại trong giai đoạn giải quyết sơ thẩm vụ án nhưng nó không xuất hiện vì do một trong các thành phần tham gia tố tụng cố tình che giấu không làm cho chúng xuất hiện cơ quan điều tra không thu thập được mặc dù đã áp dụng các biện pháp theo quy định và Tòa án cấp sơ cũng không thể phát hiện ra đến giai đoạn phúc thẩm mới phát hiện ra vậy đây có phải là vấn đề điều tra cấp sơ thẩm không đầy đủ hay không? Hai là trường hợp ngược lại, trong giai đoạn sơ thẩm, các thành phần tham gia tố tụng đã xuất trình giao nộp các chứng cứ này nhưng Tòa án đã không sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án đến khi giải quyết phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm mới phát hiện ra và đây có thuộc trường hợp việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ không? Thiết nghĩ để hiểu chính xác, đầy đủ nhất tất cả các vấn đề trên là cần có sự hướng dẫn, giải thích. 3. Kiến nghị hoàn thiện Về căn cứ hủy bản án hình sự để xét xử lại Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp hủy án để xét xử lại “Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS. Theo chúng tôi về khái niệm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố như sau Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩ là những vi phạm về mặt thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật, khách quan của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền, nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng. Để làm rõ được khái niệm này, chúng tôi nêu một số những vi phạm về thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm bao gồm cả việc chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, cũng như một số việc cần phải tiến hành sau phiên tòa; những vi phạm cũng rất đa dạng song có thể nêu lên một số vi phạm thủ tục tố tụng thường xảy ra dẫn đến việc hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại như sau Một là, vi phạm về thành phần hội đồng xét xử; Hai là xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng; Ba là không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án; Bốn là vắng mặt thành phần tham gia tố tụng quan trọng nhưng không có lý do chính đáng hoặc không thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc các trường hợp vắng mặt theo luật định. Năm là không thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa khi thuộc trường hợp phải từ chối, thay đổi theo quy định của BLTTHS; Sáu là vi phạm về thủ tục tiến hành phiên tòa; Bảy là bỏ sót chưa giải quyết triệt để hết các yêu cầu của người tham gia tố tụng; Tám là việc nghị án không đúng. Bên cạnh đó, một điều cần lưu ý, không phải tất cả các vi phạm pháp luật BLTTHS của tòa án cấp sơ thẩm đều là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại mà những vi phạm pháp luật đó phải đến mức nghiêm trọng, tức là làm cho việc giải quyết đó thiếu khách quan, toàn diện, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Còn những vi phạm pháp luật mà không làm ảnh hưởng nghiêm trọng thì không coi là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án và chuyển hồ sơ cho tòa án cấp xét xử sơ thẩm xét xử lại. Kiến nghị hoàn thiện quy định về căn cứ hủy bản án hình sự để điều tra lại. Cần có văn bản hướng dẫn đối với trường hợp hủy án để điều tra lại“Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS, theo chúng tôi văn bản hướng dẫn như sau “Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được cần phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây 1/ Các vấn đề được Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra đã tồn tại ngay từ đầu khi thụ lý xét xử sơ thẩm nhưng do Cơ quan điều tra và thành phần tham gia tố tụng không biết đến sự tồn tại của chúng hoặc chúng chưa xuất hiện. Việc không biết các vấn đề này có thể là do nguyên nhân khách quan làm cho Cơ quan điều tra không thu thập được và các thành phần tham gia tố tụng không biết song cũng có thể do một số người tham gia tố tụng biết nhưng cố ý che dấu không cung cấp làm cho Tòa án sơ thẩm không thể biết được. Ngược lại cũng có thể do người tham gia tố tụng hoặc những người tiến hành tố tụng biết mà che dấu, bỏ qua không xem xét chúng, làm chúng không được tồn tại trong hồ sơ vụ án. 2/ Về mặt thời gian, các vấn đề được xem là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được được Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm phát hiện ra sự tồn tại và sự quan trọng của chứng cứ đó nhằm giải quyết triệt để vụ án. Việc Tòa án phát hiện ra có tồn tại chứng cứ mới có thể do quá trình Tòa án nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét và phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá các chứng cứ đó hoặc cũng có thể là do người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phát hiện sự tồn tại các chứng cứ mới nhưng các chứng cứ này Tòa án không thể bổ sung, thu thập ngay tại phiên tòa được”. Từ các lập luận trên theo chúng tôi để giải thích việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được thì phải căn cứ vào hai tiêu chí nguyên nhân chúng tồn tại, xuất hiện và thời điểm chúng xuất hiện đã làm thay đổi nội dung vụ án và khi Tòa án phát hiện ra chúng mà không thể bổ sung ngay được thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ ra quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, Quảng Nam xét xử vụ án hình sự -Ảnh VP Bảng lương của quân đội, công an từ 01/7/2023 Bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản buộc ngân hàng trả lại tiền gửi tiết kiệm cho khách Bản án về khiếu kiện quyết định truy thu thuế tiền ảo không phải là đối tượng chịu thuế GTGT và thuế TNCN Bản án về tranh chấp lao động bảo hiểm công ty chậm đóng bảo hiểm cho NLĐ Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con có yếu tố nước ngoài Bản án về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân Bản án về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động Bản án về tranh chấp yêu cầu trả tiền cọc và phạt cọc hợp đồng mua bán nhà Bản án về khiếu kiện quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất và quyết định cưỡng chế thu hồi đất Bản án về tội làm nhục người khác Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do xây dựng liền kề Bản án về tội giết người, hiếp dâm và cướp tài sản Bản án về tội cho vay lãi nặng Quyết định về tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự Bản án về tranh chấp hợp đồng tặng cho QSDĐ và đòi giá trị tài sản phát sinh từ hợp đồng tặng cho Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ của tác phẩm truyện tranh Tất cảDân sựHình sựHành chínhLao độngKinh tếHôn nhân gia đìnhTừ khóa lao động,10/2018/HS-ST,trộm cắp tài sản,.... Thời gian ban hành đến Đã cập nhật 265979 bản án 1. Bản án sơ thẩm 223558 2. Bản án phúc thẩm 42223 3. Quyết định giám đốc thẩm 200 4. Án lệ 63 5. Bản án tiếng Anh 266 Video Pháp Luật Đã Có CCCD Gắn Chíp Thì Có Cần Tài Khoản Định Danh Điện Tử Không? TVPL Tiện ích bản án Thời gian giải quyết vụ ánTính án phí Biểu mẫu tố tụngLuật sư tư vấn Tai nạn lao động ngoài giờ làm việc Tuyển tập Bản Án Tuyển tập các bản án về tranh chấp trợ cấp thôi việc - 6 ngày trước Tuyển tập các bản án về tội không tố giác tội phạm - 1 tháng trước Tuyển tập bản án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản - 1 tháng trước Tuyển tập các bản án về tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác - 1 tháng trước Tuyển tập bản án về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp - 1 tháng trước Xem thêmBình luận Bản Án Đòi lại tiền gửi bị Ngân hàng chiếm đoạt - 2 tháng trước Chịu trách nhiệm liên đới đối với tài sản do vợ/chồng mất để lại - 2 tháng trước Đòi lại phần tài sản thừa kế theo pháp luật - 2 tháng trước Đòi lại đất khi bị người khác lấn chiếm trong thời gian dài - 2 tháng trước Vợ, chồng có được thỏa thuận lại mức cấp dưỡng cho con sau ly hôn? - 3 tháng trước Xem thêmThông tin pháp luật Các trường hợp được thu hồi đất nông nghiệp để bán đấu giá? - 1 ngày trước Các loại thuế phải nộp khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất? - 1 ngày trước Hướng dẫn cách tra cứu mã số thuế hộ kinh doanh - 2 ngày trước Những hành vi nên tránh để không bị xử phạt về thuế và hóa đơn - 2 ngày trước Cách xử lý hóa đơn điện tử đã lập có sai sót theo Công văn 1647/TCT-CS - 3 ngày trước Xem thêmXem nhiều nhất Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, yêu cầu hỗ trợ lãi suất và bồi thường thiệt hại tài sản số 08/2022/KDTM-PT - 6 tháng trước 08/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Quyết định giám đốc thẩm về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự đô thị và yêu cầu đòi bồi thường do hành vi cưỡng chế gây ra số 04/2018/HC-GĐT - 3 tháng trước 04/2018/HC-GĐT - Giám đốc thẩm - Hành chính Quyết định giám đốc thẩm về tranh chấp trả thưởng tiền xổ số kiến thiết số 239/2022/DS-GĐT - 3 tháng trước 239/2022/DS-GĐT - Giám đốc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 02/2022/DS-PT - 2 tháng trước 02/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp di sản thừa kế di chúc chung của vợ chồng sau đó người vợ thay đổi di chúc số 01/2022/DS-PT - 3 tháng trước 01/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sựXem thêm Dân sự Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 333/2022/DS-PT - 1 ngày trước 333/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 331/2022/DS-PT - 1 ngày trước 331/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp quyền lối đi qua và quyền sử dụng đất số 328/2022/DS-PT - 1 ngày trước 328/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra công an xã làm thất lạc hồ sơ số 21/2022/DS-PT - 3 tháng trước 21/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã bán phát mãi cho người khác đất số 71/2021/DS-PT - 4 tháng trước 71/2021/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sựXem thêm Hình sự Bản án về tội cố ý gây thương tích số 57/2023/HS-PT - 1 ngày trước 57/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án về tội cố ý gây thương tích số 57/2023/HS-PT - 1 ngày trước 57/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án về tội tham ô tài sản số 56/2023/HS-PT - 1 ngày trước 56/2023/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Bản án 37/2017/HSST ngày 21/09/2017 về tội đưa hối lộ - 4 năm trước 37/2017/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Bản án về tội làm môi giới hối lộ, đưa hối lộ và nhận hối lộ để trốn nghĩa vụ quân sự số 222/2017/HSPT - 5 năm trước 222/2017/HSPT - Phúc thẩm - Hình sựXem thêmBản án nổi bật Bản án 720/HNGĐ-PT ngày 15/08/2019 về tranh chấp xác định cha cho con, cấp dưỡng nuôi con - 3 năm trước 720/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra công an xã làm thất lạc hồ sơ số 21/2022/DS-PT - 3 tháng trước 21/2022/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án 37/2017/HSST ngày 21/09/2017 về tội đưa hối lộ - 4 năm trước 37/2017/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã bán phát mãi cho người khác đất số 71/2021/DS-PT - 4 tháng trước 71/2021/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Bản án về tội làm môi giới hối lộ, đưa hối lộ và nhận hối lộ để trốn nghĩa vụ quân sự số 222/2017/HSPT - 5 năm trước 222/2017/HSPT - Phúc thẩm - Hình sựXem thêm Hôn nhân gia đình Bản án về ly hôn số 84/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 84/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về ly hôn số 81/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 81/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về ly hôn số 80/2022/HNGĐ-ST - 4 ngày trước 80/2022/HNGĐ-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án 720/HNGĐ-PT ngày 15/08/2019 về tranh chấp xác định cha cho con, cấp dưỡng nuôi con - 3 năm trước 720/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Bản án về tranh chấp chia tài sản sau ly hôn và yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng số 31/2022/HNGĐ-PT - 1 tháng trước 31/2022/HNGĐ-PT - Phúc thẩm - Hôn Nhân Gia ĐìnhXem thêm Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 194/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 194/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng xây dựng số 190/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 190/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển giao quyền thu phí số 183/2022/KDTM-PT - 8 ngày trước 183/2022/KDTM-PT - Phúc thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 02/2022/KDTM-ST - 02/2022/KDTM-ST - Sơ thẩm - Kinh tế Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ tên miền số 28/2019/KDTM-ST - 3 năm trước 28/2019/KDTM-ST - Sơ thẩm - Kinh tếXem thêm Lao động Bản án về tranh chấp chấm dứt hợp đồng lao động, bồi thường thiệt hại số 01/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 01/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 835/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 835/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động số 834/2022/LĐ-PT - 8 ngày trước 834/2022/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động hợp đồng thử việc số 01/2022/LĐ-ST - 10 tháng trước 01/2022/LĐ-ST - Sơ thẩm - Lao động Bản án về tranh chấp chấm dứt hợp đồng lao động với đối thủ cạnh tranh số 420/2019/LĐ-PT - 4 năm trước 420/2019/LĐ-PT - Phúc thẩm - Lao độngXem thêm Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 214/2023/HC-PT - 8 ngày trước 214/2023/HC-PT - Phúc thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 126/2022/HC-ST - 10 ngày trước 126/2022/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 39/2022/HC-ST - 10 ngày trước 39/2022/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực hộ tịch số 01/2019/HC-PT - 4 năm trước 01/2019/HC-PT - Phúc thẩm - Hành chính Bản án về khiếu kiện quyết định truy thu thuế tiền ảo không phải là đối tượng chịu thuế GTGT và thuế TNCN số 22/2017/HC-ST - 5 năm trước 22/2017/HC-ST - Sơ thẩm - Hành chínhXem thêmBản án Tiếng Anh Judgment no. 20/2022/HSST against escape while being estorted - 6 tháng trước 20/2022/HSST - Sơ thẩm - Hình sự Tiếng anh Judgment No. 612/2019/HS-PT on smuggling - 2 năm trước 612/2019/HS-PT - Phúc thẩm - Hình sự Tiếng anh Judgment no. 54/2018/DS-ST dated 16/11/2018 on dispute over a service contract - 9 tháng trước 54/2018/DS-ST - Sơ thẩm - Dân sự Tiếng anh Judgment no. 76/2021/HNGD-ST on divorce dispute - 10 tháng trước 76/2021/HNGD-ST - Sơ thẩm - Hôn Nhân Gia Đình Tiếng anh Judgment no. 709/2020/DS-PT dated july 28, 2020 on petition for declaring a notarized document - 1 năm trước 709/2020/DS-PT - Phúc thẩm - Dân sự Tiếng anh Xem thêm Án lệ nổi bật Án lệ số 63/2023/AL về xem xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện - 3 tháng trước 63/2023/AL Án lệ số 57/2023/AL về hành vi gian dối nhằm tiếp cận tài sản trong tội “Cướp giật tài sản” - 3 tháng trước 57/2023/AL Án lệ số 60/2023/AL về thời hạn trả thưởng xổ số kiến thiết - 3 tháng trước 60/2023/AL Án lệ số 58/2023/AL về tình tiết định khung hình phạt tại điểm c khoản 3 Điều 244 của Bộ luật Hình sự - 3 tháng trước 58/2023/AL Án lệ số 61/2023/AL về chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi chưa thành niên - 3 tháng trước 61/2023/ALXem thêm Án lệ Thế giới Supreme Court Decision 2011Da64836 Decided April 26, 2013 about Confirmation, etc., of Domain Address Possession - 5 năm trước 2011Da64836 Supreme Court Decision 2011Da57869 Decided September 12, 2013 about Damages - 5 năm trước 2011Da57869 Supreme Court Decision 2011Da54631, 54648 Decided June 13, 2013 about Insurance Proceeds - 5 năm trước 2011Da54631 Supreme Court Decision 2011Da44276 Decided June 27, 2013 about Severance Pay, etc. - 5 năm trước 2011Da44276 Supreme Court Decision 2011Da39946 Decided November 28, 2013 about Wages - 5 năm trước 2011Da39946

bình luận bản án hình sự